Khó xử lý

Theo luật sư Chu Văn Tiến, trưởng văn phòng luật sư An Nam, vụ việc xảy ra vào thời điểm năm 1974 và năm 1987 thì khi đó pháp luật chưa có quy định cũng như hướng dẫn giải quyết trường hợp trao nhầm con nên rất khó để có thể truy cứu trách nhiệm.

Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn và công tác quản lý của các bệnh viện, cơ sở chăm sóc y tế những thập niên 70 – 80 thế kỷ XX là rất hạn chế. Điểm mấu chốt phải xác định được cán bộ trực tiếp để xảy ra vụ việc mới có căn cứ làm rõ việc trao nhầm. Nếu không xác định được cán bộ đó thì thực tế rất khó có căn cứ xác định trách nhiệm của Nhà hộ sinh Ba Đình hay Nhà hộ sinh Đống Đa cũng như bản chất sự việc đó để giải quyết.

Chị Tạ Thị Thu Trang trong vụ việc nuôi nhầm 42 năm
Chị Tạ Thị Thu Trang trong vụ việc "nuôi nhầm" 42 năm

Đặc biệt, trong vụ việc nhầm 42 năm trước tại Ba Đình, việc trao nhầm đã xảy ra quá lâu. Đến nay, trải qua các giai đoạn lịch sử nên việc lưu giữ các hồ sơ, tài liệu liên quan đến vụ việc khó có thể còn. Nhiều cán bộ y tế trực tiếp làm và có liên quan thời điểm đó có thể đã già yếu, chết… Trường hợp nếu có xác định được cán bộ trao nhầm thời điểm đó cũng khó xử lý vì cơ chế giải quyết theo pháp luật lúc đó là không có qui định xử lý. Do đó, rất khó để hồi tố giải quyết.

Ngoài ra, vấn đề bồi thường thiệt hại cũng rất khó, bởi theo mục 6, phần I, Nghị quyết số 03/2006/NQ - HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có quy định : “Đối với những trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh trước ngày 01/01/2005, thời hiệu khởi kiện yêu cầu bổi thường thiệt hai là hai năm kể từ ngày 01/01/2005”, do vậy, vụ việc xảy ra từ năm 1974 và năm 1987 là không đủ căn cứ để khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Chị Lê Thanh Hiền trong vụ việc nhầm con 29 năm. Ảnh: Quý Đoàn.
Chị Lê Thanh Hiền trong vụ việc "nhầm con" 29 năm. Ảnh: Quý Đoàn.

Nếu vụ việc xảy ra trong thời điểm hiện nay thì sẽ có nhiều cơ chế giải quyết và xử lý theo qui định của pháp luật hiện hành. Trong trường hợp trao nhầm con thì tùy theo tính chất, mức độ, động cơ, mục đích hành vi vi phạm mà người trực tiếp để xảy ra việc trao nhầm lẫn trẻ sơ sinh sẽ bị xem xét để xử lý trách nhiệm theo qui định của pháp luật.

Nếu cơ quan điều tra xác định hành vi đó được thực hiện với lỗi cố ý thì sẽ bị xử lý trách nhiệm hình sự về Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em. Tội phạm và hình phạt được qui định tại Điều 120 BLHS 1999 với khung hình phạt thấp nhất từ 3-10 năm tù và cao nhất từ 10 – 20 năm hoặc tù chung thân.

Nếu hành vi trao nhầm con do Cán bộ chăm sóc y tế được thực hiện do lỗi vô ý thì tùy theo mức độ có thể bị xử lý kỷ luật và Cơ sở y tế phải bồi thường theo qui định của pháp luật.

Hệ luỵ từ vụ việc hy hữu

Trong khi đó, theo luật sư Huỳnh Mỹ Long - Văn phòng luật sư Chính pháp, vụ việc nhầm lẫn của cả hai trường hợp này sẽ nảy sinh nhiều hệ luỵ đằng sau đó. Trong đó, có vấn đề cần quan tâm chính là việc phân chia, thừa kế tài sản nếu tìm được người bị nhầm và người đang bị nhầm. Để giải quyết vấn đề này, theo ông Long có thể căn cứ theo điều 676 – Bộ luật Dân sự:

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: Cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Chị Lê Thanh Hiền (bên phải) lúc nhỏ
Chị Lê Thanh Hiền (bên phải) lúc nhỏ

Dù trong thực tế, do bị trao nhầm con nên bố mẹ và con không cùng huyết thống, về mặt pháp lý, chưa có sự thay đổi quan hệ cha, mẹ - con; anh chị em (chưa có phán quyết của cơ quan có thẩm quyền) nên vẫn được vẫn được hưởng di sản theo Điều 676 BLDS.

Bên cạnh đó, theo Điều 3 BLDS: Áp dụng tập quán, quy định tương tự của pháp luật. Theo đó, trong trường hợp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì có thể áp dụng tập quán, nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật không được trái với những nguyên tắc quy định trong Bộ luật này.

Nếu sau khi có phán quyết của cơ quan có thẩm quyền về thay đổi mối quan hệ cha, mẹ-con; anh chị em, người con bị trao nhầm vẫn có thể được hưởng di sản thừa kế theo diện con nuôi.

Căn cứ cho quyết định này theo Điều 676 BLDS; Luật Nuôi con nuôi 2010; Nghị định 19/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật Nuôi con nuôi 2010 (áp dụng quy định tương tự của pháp luật).

Cũng theo luật sư Long, trong trường hợp nếu người bị nhầm hiện giờ không còn sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, nếu hai bên gia đình muốn nhận lại nhau thì Toà án Việt Nam lúc đó sẽ giải quyết vụ án theo hướng uỷ thác cho Toà án nước ngoài hoặc uỷ thác tư pháp của Toà án nước ngoài về việc tiến hành tìm kiếm người bị nhầm để hai bên gia đình nhận lại nhau theo quy định tại Khoản 1 điều 415 về thực hiện uỷ thác tư pháp.

Bài học lớn cho các cơ sở chăm sóc y tế

Theo luật sư Nguyễn Anh Thơm – Trưởng VPLS Nguyễn Anh, đây là câu chuyện để cho chúng ta rất nhiều cảm xúc, không chỉ đối với những người trong cuộc. Dù là bị nhận nhầm con và dưới sự gièm pha của dư luận và xã hội nhưng bà Nguyễn Thị Mai Hạnh vẫn hết mực yêu thương người con gái bị trao nhầm như con con đẻ của mình sinh ra. Công sức chăm lo cho con từ khi sinh ra đến khi khôn lớn mới là điều quan trọng nhất. Bằng chứng là đến nay, cả gia đình bà Hạnh cũng như trường hợp gia đình bà Tuyết đều đang sống rất hạnh phúc trước khi biết bị trao nhầm con từ khi lọt lòng.

Rõ ràng, các vụ việc này là hồi chuông cảnh báo về công tác quản lý trong lĩnh vực liên quan đến sinh sản tại các cơ sở chăm sóc y tế. Chúng ta phải hết sức thận trọng, thực hiện đúng qui trình quản lý chăm sóc các cháu bé khi sinh ra. Chỉ cần chủ quan, sơ ý từ cái nhỏ nhất trong nghiệp vụ thì hậu quả xảy ra sẽ khôn lường và ảnh hưởng rất lớn tới cả cuộc đời gia đình sản phụ trong tương lai.

Hiện tại, để tránh những sự việc tương tự, nếu bố mẹ mà có nghi ngờ rằng y tá đánh tráo hay nhầm lẫn con của mình thì có thể đến các cơ sở y tế giám định AND xác định ngay. Nếu có trường hợp trao nhầm thì có thể giải quyết kịp thời nhanh chóng tìm lại, tránh những trường hợp đau lòng xảy ra như trên.

Ngoài ra, nếu phát hiện có dấu hiệu cán bộ chăm sóc đánh tráo trẻ sơ sinh thì có thể làm đơn tố cáo lên cơ quan Công an xử lý và yêu cầu bồi thường thiệt hại theo qui định của pháp luật vì hiện tại đã có quy định rất rõ.


Theo Dân Trí